Monday, January 25, 2016

Hài Tết 2016 | TIỀN ĐỒ FULL HD | Phim Hài Chiến Thắng , Quang Tèo

Nguồn: Phim Hài Chiến Thắng , Quang Tèo




Quảng Cáo : Tranh Tài Phát ( Tranh Đồng - Tranh Đá - Tranh Thêu - Tranh Sơn Dầu)
        Địa chỉ :  88 Đản Dị Uy Nỗ Đông Anh Hà Nội
             ĐT: 0938697888 - 0939352888


Hài Tết 2016 - TRỞ LẠI Full HD | Phim Hài Tết Mới Đạo Diễn Phạm Đông Hồng



Nguồn: Thang Long Audio Visual
    Quảng Cáo : Tranh Tài Phát ( Tranh Đồng - Tranh Đá - Tranh Thêu - Tranh Sơn Dầu)
        Địa chỉ :  88 Đản Dị Uy Nỗ Đông Anh Hà Nội
             ĐT: 0938697888 - 0939352888


Hài Tết 2016 - CHÔN NHỜI 3 Full HD | Phim Hài Tết Mới Đạo diễn Phạm Đông Hồng



Nguồn : Thang Long Audio Visual
Quảng Cáo : Tranh Tài Phát ( Tranh Đồng - Tranh Đá - Tranh Thêu - Tranh Sơn Dầu)
        Địa chỉ :  88 Đản Dị Uy Nỗ Đông Anh Hà Nội
             ĐT: 0938697888 - 0939352888




Monday, July 21, 2014

Nét Gương Mặt Phú Quý "trời ban" ở Phụ Nữ

Trên gương mặt, nếu có những nét quý tướng được cho là 'trời ban', bạn sẽ có một cuộc đời sung túc hoặc quyền cao chức trọng. Cùng tìm hiểu xem những nét phú quý đó được thể hiện như thế nào nhé!
1. Tướng trán phú quý
Nhận biết nét gương mặt phú quý "trời ban" ở phụ nữ

Trán là bộ vị trọng yếu trong tướng người, luận về công danh, sự nghiệp. Thông thường, người có tướng trán cao lớn, đầy đặn có tướng phú quý, thông tuệ, học nhanh hiểu rộng. Trán thẳng tựa như bức tường là tướng phúc thọ cao. Ngược lại, trán có nhiều gân guốc, lõm bẹt là tướng xấu. Người có trán quá thấp có thể bị mồ côi, cuộc đời vất vả hoặc tính cách xấu. Trán tươi nhuận, sáng như ngọc thì danh cao vận tốt; nếu màu sắc ảm đạm và nhăn là tướng xấu.
2. Lông mày phú quý
Nhận biết nét gương mặt phú quý "trời ban" ở phụ nữ
Lông mày dài, mọc lên cao phía trán là người phú quý, thành đạt. Đuôi lông mày mọc xếch lên phía trên (chạy về phía thái dương) là người tài hoa, được mọi người quý trọng, tôn kính. Lông mày đen như mực tàu, tươi mịn, sợi dài bóng bẩy, bằng hoặc dài quá đuôi mắt là người được sở hữu công danh, thành đạt. Người có đôi lông mày mịn, sợi lông mọc xuôi và có thêm nốt ruồi trên lông mày là người có khả năng làm lãnh đạo. Chủ nhân của đôi lông mày mọc theo hình vòng cung là người dễ thành đạt nếu đi theo ngành ngoại giao. Nếu thêm đôi mắt sáng thì rất dễ trở thành người nổi tiếng.
3. Mắt phú quý
Nhận biết nét gương mặt phú quý "trời ban" ở phụ nữ


Mắt dài, sâu vừa phải (tròng mắt không quá sâu), sáng sủa, sắc tươi nhuận là người cao quý, thành đạt. Mắt thanh tú mà dài là tướng quý, trong đó ranh giới giữa lòng đen và lòng trắng được phân định rõ ràng, đồng tử phải ở ngay chính giữa nhãn cầu. Người có tướng mắt này phối hợp với tai và lông mày đẹp là đại quý nhân. Đồng tử ngay ngắn, sáng, lông mày dài và thanh tú là người vừa phú quý, vừa có phúc, cuộc đời giàu có, an nhàn. Ánh mắt cương liệt, có thần uy khiến người khác không dám nhìn thẳng vào mắt, phối hợp với tướng miệng đẹp là người có tài lãnh đạo. Họ có tư tưởng cao xa, lời nói thuyết phục, là tướng người được mọi người mến phục.
4. Tướng mũi phú quý
Nhận biết nét gương mặt phú quý "trời ban" ở phụ nữ


Mũi rồng có hình dạng thân mũi cao, dáng mũi thẳng, sơn căn (khoảng cách giữa hai đầu mắt) rộng và đầy đặn; chuẩn đầu (chóp mũi) cân xứng, hai cánh mũi nở đều là dáng mũi đẹp nhất của nam giới, có đủ phú quý lẫn vinh hiển. Chủ nhân của tướng mũi này hội tụ mọi tư chất: thông minh, vốn hiểu biết sâu rộng, đầu óc sáng suốt và nhanh nhạy, tinh tế... Người này có khả năng chi phối và dẫn dắt người khác, rất dễ trở thành nhà lãnh đạo tài ba. Ngoài ra, họ cũng dễ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp; cuộc sống an nhàn, được hưởng giàu sang phú quý, gia đình hạnh phúc. Đường hậu vận của những người này cũng rất tốt đẹp, được hưởng nhiều phúc lộc, đời con cháu hưng vượng. Tuy nhiên, nếu chỉ có mũi rồng mà không có sự phối hợp cân xứng với ngũ quan (lông mày, mắt, tai, mũi, miệng) thì sự phú quý sẽ bị giảm đi nhiều. Một trong các ngũ quan bị lệch lạc hoặc khiếm khuyết thì cuộc sống chủ nhân tuy được an nhàn, giàu sang nhưng sự nghiệp có thể không được thuận lợi.

Sunday, May 25, 2014

Chọn Vợ Nhờ Toán Học. Tại sao Không ?

Công thức toán học giúp bạn tìm được "người vợ hoàn hảo"

Chúng ta có thể áp dụng toán học để tìm ra người bạn đời phù hợp nhất với mình.
Johannes Kepler (1571-1630) là một nhà toán học và thiên văn học nổi tiếng người Đức. Ông đã đóng góp cho nhân loại nhiều nghiên cứu khoa học quý giá, trong đó nổi tiếng nhất là những định luật chuyển động của các thiên thể. 

Có tài liệu ghi lại rằng, sau khi vợ đầu tiên của Johannes Kepler - bà Barbara qua đời, Kepler quyết định tái hôn. Ông đã đi xem mặt khá nhiều đối tượng và chợt nảy ra ý định dùng toán học để lựa chọn ra bà vợ hợp nhất với mình.

Johannes Kepler được giới thiệu và làm quen với tổng cộng 11 người phụ nữ khác nhau. Có người rất đẹp và cao ráo, có cô lại hiền lành, chăm chỉ. Tuy nhiên Kepler cũng gặp phải những cô rất kiêu kì, hoặc thích tiêu xài xa hoa đến mức Kepler sợ "chạy mất dép".
Hình ảnh nhà thiên văn học, toán học Johannes Kepler.

Với óc suy nghĩ của một nhà khoa học, Kepler muốn tìm hiểu xem liệu có một phương pháp toán học nào giúp ông chọn ra được người vợ phù hợp nhất với mình. Câu chuyện này đã được khái quát hóa thành "bài toán hôn nhân" (hay còn gọi là "bài toán thư ký’" - Secretary Problem - một bài tập kinh điển trong xác suất ứng dụng).
Bài toán có thể được trình bày như sau:

- Kepler sẽ tìm hiểu lần lượt mỗi người phụ nữ được giới thiệu một cách ngẫu nhiên.
- Sau khi kết thúc tìm hiểu với mỗi người, Kepler phải đưa ra quyết định cưới hoặc từ chối người đó ngay.
- Những người đã bị từ chối sẽ không quay lại hò hẹn với Kepler lần nữa.
- Kepler có thể đánh giá và so sánh giữa những người phụ nữ ông đã gặp, nhưng không thể biết gì về những người còn lại.

Câu hỏi của bài toán là: Kepler phải làm thế nào để xác suất tìm được người vợ phù hợp là cao nhất?


Trước hết, ta cần lưu ý là bài toán hỏi cách tối ưu hóa xác suất chọn ra người vợ phù hợp nhất (hay tối đa hóa sự hài lòng của Kepler với cuộc hôn nhân mới). Vì đối tượng nghiên cứu là xác suất nên dù áp dụng cách này, Kepler vẫn có khả năng bỏ sót người phụ nữ tốt nhất.  
Số e có ứng dụng rộng rãi trong toán học 
Lời giải của bài toán này liên quan đến số e - một hằng số được sử dụng rất nhiều trong toán học. Đây là một cơ số logarit tự nhiên và là một số vô tỉ, có giá trị xấp xỉ khoảng 2,718.

 

Bước đầu tiên, ta sẽ lấy tổng số ứng viên (n) chia số e. Vì Kepler sẽ tìm hiểu 11 người phụ nữ tất cả, ta sẽ lấy 11 chia cho e và được kết quả xấp xỉ 4,047. Theo đó, Kepler sẽ tìm hiểu và buộc phải từ chối 4 người phụ nữ đầu tiên cho dù họ có tốt đến bao nhiêu.

Từ người phụ nữ thứ 5 trở đi, ông sẽ cưới ngay người nào mà ông thấy tốt hơn hẳn 4 người đầu tiên ông gặp. Với cách làm này, xác suất để Kepler hài lòng với cuộc hôn nhân mới sẽ là 36,8% (là giá trị mà 1 chia cho số e rồi nhân với 100%). Đây là con số rất cao đối với toán học và tốt hơn hẳn so với việc chọn vợ một cách ngẫu nhiên.


Trong thực tế, Kepler đã dành tới 2 năm để gặp tất cả 11 người phụ nữ để rồi cuối cùng ông quyết định kết hôn với người thứ 5 ông gặp, bà Susanna Reuttinger. 

Các nhà sử học đánh giá đây là một cuộc hôn nhân hạnh phúc của Kepler bởi bà Susanna là người khiêm tốn, tiết kiệm và chăm chỉ. Đặc biệt hơn nữa là bà rất yêu thương những đứa con riêng của Kepler với người vợ đầu tiên đã qua đời.

Tuy vậy, có khá nhiều ý kiến cho rằng, nếu Kepler biết về "bài toán hôn nhân" ngay từ đầu, có lẽ ông đã thành vợ thành chồng với bà Susanna sớm hơn mà không phải tốn quá nhiều thời gian tìm hiểu những người phụ nữ còn lại.
* Bài viết dựa trên quan điểm của Robert Krulwich, đăng trên chuyên trang khoa học NPR.

Wednesday, May 14, 2014

Lịch thi đấu chi tiết 64 trận tại VCK World Cup 2014

CÁC BẢNG ĐẤU
Bảng A: Brazil, Croatia, Mexico, Cameroon
Bảng B: Tây Ban Nha, Hà Lan, Chile, Australia
Bảng C: Colombia, Hy Lạp, Bờ Biển Ngà, Nhật Bản
Bảng D: Uruguay, Anh, Costa Rica, Italia
Bảng E: Thụy Sỹ, Pháp, Ecuador, Honduras
Bảng F: Argentina, Bosnia-Herzegovina, Nigeria, Iran
Bảng G: Đức, Bồ Đào Nha, Ghana, Mỹ
Bảng H: Bỉ, Nga, Algeria, Hàn Quốc


THỂ THỨC THI ĐẤU TẠI WORLD CUP 2014
- 32 đội, chia làm 8 bảng đá vòng tròn tính điểm.
- Mỗi trận thắng được 3 điểm, hòa 1 điểm, thua 0 điểm.
- 16 đội nhất và nhì bảng vào vòng 1/8.
- Từ vòng 1/8 đá loại trực tiếp.

Trong trường hợp có 2 hay nhiều đội bằng điểm nhau sau khi vòng đấu bảng kết thúc, việc phân định ngôi thứ sẽ dựa trên các tiêu chuẩn sau:
1.    Có hiệu số bàn thắng bại cao nhất trong tất cả các trận đấu của bảng;
2.    Ghi được nhiều bàn thắng nhất trong tất cả các trận đấu của bảng;
3.    Giành được nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp;
4.    Có hiệu số bàn thắng bại cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp;
5.    Ghi được nhiều bàn thắng hơn trong tất cả các trận đối đầu trực tiếp;
6.    Ủy ban tổ chức của FIFA tiến hành bốc thăm.
- Mỗi đội tuyển tham gia vòng chung kết có quyền đăng ký 23 cầu thủ, trong đó có tối thiểu 3 thủ môn. Hạn cuối cùng để nộp danh sách là 10 ngày trước khi bắt đầu giải. Trong trường hợp chấn thương vào phút chót, các đội tuyển có thể thay đổi danh sách chậm nhất là vào 24 giờ trước trận đấu khai mạc giải.

Sunday, April 6, 2014

8 kỹ thuật chụp ảnh nên biết

Là một nhà thiết kế hẳn bạn cũng yêu nhiếp ảnh. Với tám hiệu ứng nhiếp ảnh cơ bản dưới đây, bạn sẽ có kết quả thú vị hơn khi bấm máy.
  1. Bokeh
 
 Bokeh là từ chuyên môn khi đề cập tới hiệu ứng của khu vực không được tập trung (focus) của ảnh. Để một tấm ảnh xuất hiện Bokeh đòi hỏi một chiếc máy chụp hình chất lượng khá với một ống kính có hỗ trợ để bạn có thể có tốc độ chụp nhanh.
  
Bạn cũng có thể tạo các hình thù khác nhau của bokeh, chẳng hạn như ngôi sao, hoặc trái tim. Điều này có thể thực hiện bằng cách chụp lên ống kính cái nắp bằng giấy có khoét hình mà bokeh mà bạn muốn thấy trên ảnh.
 Tạo Bokeh hình trái tim trên ống Fix 50mm 1.8
 2. Panning – Di chuyển
Panning là kỹ thuật đề cập tới sự chuyển động dọc, ngang trong khi chụp hoặc quay phim. Để có thể có kỹ thuật Panning, bạn cần di chuyển theo đối tượng, hoặc lia ống kính theo hướng di chuyển đối tượng và ấn nút chụp.
Nó sẽ đem lại hiệu ứng thú vị và thích hợp với những sự kiện có chuyển động như đua xe, thi chạy…
3. Quy tắc một phần ba

 

 Quy tắc 1/3 là một quy tắc cực kỳ cơ bản, nó là dạng bố cục được nhiều họa sĩ và nhiếp ảnh gia lựa chọn. Quy tắc 1/3 là cách bạn chia bức ảnh làm 3 phần đối với hai chiều ngang và dọc, sau đó ngắm chụp sao cho đối tượng chính nằm trong 1/3 của ảnh.
Với những người chuyên nghiệp việc lựa bố cục đã thành thói quen, còn nếu bạn bỡ ngỡ thì việc luyện tập thường xuyên sẽ giúp bạn có bức ảnh ưng ý.
Nếu bạn say sưa chụp mà quên mất việc lựa chọn một bố cục thích hợp thì hãy để …Photoshop làm việc này.
 4. Giờ vàng

Giờ vàng hay còn gọi là Magic Hour, đề cập tới những giờ mặt trời bắt đầu lên và mặt trời chuẩn bị khuất đi. Chúng là khoảng thời gian hoàn hảo trong ngày để tạo nên một tấm hình hoàn hảo, tuy nhiên lại rất nhanh qua do thời khắc “chiều tà” hay “hoàng hôn” rất ngắn.
 Việc mặt trời gần đường chân trời giúp cường độ ánh sáng mặt trời giảm, màu sắc trở nên ấm ám và dễ chịu. Trong khi ban ngày thì trời quá sáng, khiến những đối tượng trong ảnh có thể xuất hiện bóng đổ không đẹp mắt, đặc biệt với nhiếp ảnh chân dung.
 5. Tỉ lệ vàng
Tỉ lệ vàng xuất hiện trên dãy số Fibonacci: 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34 với số sau là tổng hai số trước đó. Các bố cục sử dụng Tỉ lệ vàng thường giúp mắt người tập trung tốt hơn, và những tỉ lệ này xuất hiện phổ biến trong thiên nhiên và cả với số đo cơ thể người.

 6. Đánh Flash

Khi đối tượng có vật chắn sáng khiến phần tối tương phản nhiều với phần sáng, đánh flash là giải pháp tốt.
 Đánh Flash là một kỹ thuật của nhiếp ảnh nhằm giúp cho các vùng tối trên ảnh được thấy tốt hơn.
  7. Phơi sáng – Long Exposure

 

Phơi sáng là một kỹ thuật thú vị (nó ngược lại với Bokeh) khi đòi hỏi độ mở ống kính nhỏ và tốc độ màn chập trong thời gian dài. Việc này sẽ giúp ghi lại những yếu tố chuyển động trong khoảng thời gian đợi màn chập sập xuống.
Kỹ thuật này thường được chụp vào ban đêm khi nhiếp ảnh gia muốn ghi lại chuyển động của xe cộ, hay những ngôi sao. Tuy nhiên cũng có thể dùng vào ban ngày nếu bạn muốn chụp một dòng nước, hay sương mù buổi sáng, hoặc trên núi.

 8. Contre-jour

 

Contre-jour trong tiếng Pháp là ngược sáng. Chụp ngược sáng nhiều khi là một lựa chọn sai, nhưng trong một số trường hợp nó lại đem lại hiểu quả bất ngờ. Nhờ sự tương phản cao giữa ánh sáng và bóng tối, nên các chi tiết hầu như biến mất, chỉ nổi lên các đường viền của đối tượng.
Tuy nhiên với một ống kính không được hỗ trợ tốt, việc chụp ngược sáng khiến ảnh bị mất nét. Vì thế có những bộ lọc – Filter hỗ trợ ngăn cản ánh sáng vào ống kính quá nhiều.
 Kết luận
Để chụp ảnh tốt cần rất nhiều kỹ thuật, nguyên tắc để có những tấm hình được đánh giá cao. Vì thế nếu chưa biết bạn có thể làm quen với những kỹ thuật cơ bản trên đây.
Khi nắm vững các kỹ thuật, nguyên tắc cơ bản thì có những tấm ảnh tuyệt vời đối với bạn sẽ là việc dễ dàng hơn.

7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1

Trái cây tốt cho vòng 1

Ăn trái cây không chỉ tốt cho sức khỏe mà cả vẻ đẹp 3 vòng của bạn cũng được cải thiện.

Những mẹo vặt đơn giản, dễ làm giúp chị em ngày một đẹp và quyến rũ hơn.
Trái cây hầu hết đều rất có lợi cho cả sức khỏe, làn da và vẻ đẹp của bạn. Trong số đó có một vài loại trái cây đặc biệt tốt cho vòng 1:
Bưởi
7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1 - 1
Bưởi nâng ngực hiệu quả. Bưởi chứa nhiều chất chống oxy hóa lại giàu vitamin C hiệu quả nhất trong việc làm đẹp vòng 1. Và đặc biệt, bưởi ít năng lượng thấp, giúp giảm cân nhưng lại không làm giảm lượng mỡ tập trung ở ngực. Vì thế, đây là bí quyết giảm vòng 2 tăng vòng 1 hữu hiệu.
Đu đủ
7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1 - 2
Đu đủ là loại quả giàu dinh dưỡng, với hàm lượng dinh dưỡng cao gồm vitamin A, B, B1, B2, C, chất đạm, sắt, canxi, enzym, các acid hữu cơ và chất xơ đu đủ có tác dụng làm đầy ngực nhờ kích thích sản sinh estrogen.
7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1 - 3
Để ăn đu đủ làm nở ngực, bạn có thể kết hợp cả đu đủ chín và đu đủ xanh. Đu đủ chín có thể ăn trực tiếp hoặc làm sinh tố với sữa tươi hằng ngày. Đu đủ xanh có thể nấu với móng giò là món ăn rất ngon lại giúp cải thiện vòng 1 tự nhiên nhất.
Cà chua
7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1 - 4
Cà chua có hàm lượng vitamin C và vitamin E phong phú. Vitamin C ngăn ngừa sự biến dạng ngực, vitamin E có tác dụng hỗ trợ tuyến sữa phát triển, tăng độ đàn hồi cho vòng 1. Ngoài ra, các vitamin nhóm B trong cà chua còn giúp thúc đẩy quá trình hấp thụ duỡng chất của cơ thể, giúp vòng 1 phát triển.
Nho
7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1 - 5
Nho là loại quả chứa rất nhiều các loại vitamin, cũng có tác dụng ngăn ngực chảy xệ, nhão do thời gian. Cách chế biến nho tốt nhất cho ngực là pha nước ép cùng cà chua. Nho bóc vỏ bỏ hạt, cà chua bỏ vỏ, ép thành nước. Uống đều đặn mỗi ngày có thể cải thiện nội tiết tố, giúp nở ngực.
Trái bơ
7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1 - 6
Trong trái bơ có rất nhiều axit béo không no có tính năng làm tăng độ đàn hồi các mô vùng ngực. Bên cạnh đó, vitamin A thúc đẩy việc tiết các kích thích tố nữ, vitamin C giúp ngăn chặn sự biến dạng của ngực, vitamin E giúp ngực nở là những thành tố giúp trái bơ trở thành vũ khí bí mật giúp chị em phụ nữ đạt được một bộ ngực đẹp và nở nang nhất.
Hướng dẫn làm sinh tố bơ: bơ sữa 1/2 trái bơ, nạo lấy phần ruột, cho vào 250ml sữa tươi và một lượng vừa phải quả óc chó (hạt dẻ), xay chung thành sinh tố, thêm vào một chút mật ong cho ngon.
Quả anh đào
Loại quả ăn nhiều sẽ giúp vòng 1 to nhanh. 100gr quả anh đào (cherry) chứa đến 59mg sắt và chứa các vitamin nhóm B, C và canxi, photospho cùng các thành phần khoáng chất khác. Ăn quả anh đào sẽ rất có lợi cho phát triển ngực, thúc đẩy việc tái tạo hồng cầu, có tác dụng phòng chống và điều trị bệnh thiếu máu do thiếu sắt, giúp ngực đầy đặn, nảy nở, không còn nếp nhăn, da ngực trắng hồng, mịn màng.
Quả óc chó
7 loại trái cây càng ăn càng to vòng 1 - 7
Quả óc chó rất giàu vitamin E và kẽm, nó đặc biệt giàu axit linolenic có tác dụng trì hoãn quá trình lão hóa vòng 1.
Ngoài ra, quả óc chó dồi dào các loại protein, khoáng chất thực vật, vitamin B có giá trị chăm sóc cho sắc đẹp của chị em, đặc biệt là mái tóc và làn da.

Sunday, December 15, 2013

Chữa xuất tinh sớm bằng phương pháp đơn giản

Chữa xuất tinh sớm bằng phương pháp đơn giản


Hãy cố gắng hết mình để tự điều trị hoặc có sự phối hợp của bạn tình. Bạn phải tin rằng mình sẽ thành công thì phép màu mới đến.
Đây là bài tập đặc biệt ở nhà dành cho người bị xuất tinh sớm, với mục đích giúp cải thiện và làm gia tăng nhận thức một cách từ từ và có hệ thống đối với những khoái cảm tình dục xảy ra trước khi độ cực khoái xuất hiện.
Tự tập hai đến ba lần một tuần ở nhà. Ngoài ra, phải đến bác sĩ chuyên khoa một lần một tuần, để được tư vấn, giải thích và sửa chữa những sai lầm mắc phải.
Bước I: Tập trung vào cảm giác của bộ phận sinh dục
Tạo cảm giác thoải mái, không bị quấy rầy. Bắt đầu thủ dâm theo cách bạn thường sử dụng. Nằm ngửa, nằm nghiêng, nằm sấp hay ngồi.
Cầm toàn bộ dương vật hay đầu dương vật, kích thích theo nhịp. Kích thích nhẹ từ từ hoặc mạnh. Sau đó làm chậm lại và cố gắng tập trung vào khoái cảm xuất phát của dương vật.
Tập trung vào những cảm giác mà nó sẽ tạo độ cực khoái cho bạn nhưng chưa đến thời điểm xuất tinh. Sau đó thả lỏng và thưởng thức độ cực khoái.
Bước 2: Kích thích dương vật theo phương pháp “ngừng – bắt đầu”
Một ngày hoặc hai ba ngày sau đó, thủ dâm lần nữa trong điều kiện không bị căng thẳng. Trong giai đoạn này, tư thế không quan trọng vì sử dụng tay là chủ yếu.
Ngừng kích thích khi bạn đạt đến mức khoái cảm cao hơn, gần với độ cực khoái. Ngưng vài giây, nhưng không quá lâu, dễ mất hiện tượng cương nhưng đủ dài để sự hưng phấn của bạn giảm đi một chút.
Sau đó, bắt đầu lại việc kích thích dương vật và đầu dương vật theo nhịp. Thực hiện ba lần chu kỳ trên. Cuối cùng, bạn có thể tiếp tục lần thứ tư nhanh và thoải mái tùy theo khả năng của bạn. Trong giai đoạn này, cố gắng tập trung vào khoái cảm của dương vật. Đừng cố gắng kiềm chế hay ngăn cản nó.
Bước 3: Kích thích dương vật theo phương pháp “ngừng – bắt đầu”trong tình trạng  “ướt”
Lặp lại bài tập thứ hai mỗi hai hay ba ngày cho đến khi bạn trở nên quen với cảm giác trước khi đạt điểm cực khoái và bắt đầu cảm thấy có thể kiểm soát được.
Nếu phải cần thực hành nhiều hơn để thuần thục trước khi bắt đầu bước kế tiếp, đừng lo lắng, kết quả có thể tuyệt vời ngay cả nếu bạn phải luyện tập dài hơn.
Giai đoạn này, thực hiện phương pháp tự kích thích dưới vòi tắm hoa sen. Dùng nước ấm và dùng xà bông thoa vào tay để kích thích dương vật giống như chất nhờn. Điều này gây cảm giác dễ chịu và khác với các phương pháp tập luyện cũ của bạn.
Chữa xuất tinh sớm bằng phương pháp đơn giản - 1
Nhiều nam giới đau khổ vì mắc chứng xuất tinh sớm (Ảnh minh họa)
Tuy nhiên, một số người cảm thấy bất tiện khi tập luyện trong phòng tắm dưới vòi sen, nên họ có thể thực hiện bài tập này ở bất cứ nơi đâu, miễn là có sử dụng chất bôi trơn (như vaseline).
Mục đích của bài tập này là bệnh nhân làm quen với cảm giác “ướt”. Điều này hết sức quan trọng, vì cảm giác này tương tự như cảm giác của dương vật trong âm đạo.
Khi bạn có thể thực hiện bài tập này trong 3 phút, bạn đã sẵn sàng cho bước tiếp theo. Tuy nhiên, không nên tính thời gian quá chi tiết và quan trọng hóa điều này, nên thiết lập khoảng thời gian thích hợp cho riêng mình.
Để đạt được thành công, bạn cần học được và nhận được cảm giác thoải mái, hài lòng khi luyện tập. Đừng lo lắng và bận tâm về thời lượng mà bạn thực hiện.
Bước 4: Kích thích dương vật theo phương pháp “chậm – nhanh”
Lặp lại bài tập “ngừng – bắt đầu” hoặc trong phòng tắm hoặc ở nơi khác nhưng có sử dụng chất bôi trơn vaseline. Trong thời gian này, khi kích thích dương vật gần đạt đến độ cực khoái, bạn không dừng lại giống như những bước trước mà vẫn tiếp tục kích thích với tốc độ chậm, từ từ.
Lúc đầu, có thể bạn phải ngừng một chút để lấy lại sự kiểm soát. Nhưng sau khi thực hiện vài lần, bạn sẽ quen dần và kiểm soát được sự hưng phấn của bạn chỉ bằng cách giảm nhịp độ và tốc độ kích thích.
Bước 5: Cách giữ sự hưng phấn
Bây giờ bạn chuẩn bị bài tập cuối cùng, bài tập này giúp bạn tự kiểm soát một cách vững vàng trong giai đoạn đạt khoái cảm. Vào lúc này, bạn đã quen với cảm giác tình dục của mình.
Bây giờ, độ kích thích tình dục (không phải là độ cương cứng của dương vật) được chia theo thang điểm thành 10 mức, từ 0 đến 10. Mức 0 là khi bạn hoàn toàn không kích thích. Mức 10 là khi bạn đạt độ cực khoái và sau đó xuất tinh. Bạn nên ngừng kích thích dương vật ở mức 8,5.
Nếu bạn cố gắng đến mức 9,5, có nghĩa là bạn đi quá xa. Như thế thì rất khó kiểm soát và kiềm chế được tình trạng xuất tinh. Ngược lại, nếu bạn ngừng kích thích ở mức 4 hoặc 5, thì quá ngắn.
Cần nhắc lại, mục đích của bài tập này không làm giảm sự kích thích của bạn mà là làm cho bạn chủ động và kiểm soát được sự kích thích và xuất tinh trong khi bạn đang ở giai đoạn cao của quá trình hưng phấn. Như vậy, bạn có thể tận hưởng được cảm giác khoái cảm tuyệt vời ở đỉnh điểm thay vì phải kiềm chế nó.
Sau khi bạn thực hiện bài tập này một cách thuần thục, bạn áp dụng bài tập này theo kiểu “ướt” bằng cách sử dụng vaseline (hoặc thực hiện dưới vòi sen).
Bạn tự kích thích cho đến khi đạt được mức 6, sau đó làm chậm dần và độ khoái cảm của bạn giảm dần còn 6. Khi đó, kích thích nhanh trở lại để đạt mức 7 và cố gắng giữ mức kích thích từ 5 đến 7 trong 2 phút. Cần chú ý, không giữ khoái cảm ở mức 8 – 9, vì quá gần với độ cực khoái, có thể làm xuất tinh.
Một lần nữa cần nhắc lại, bài tập này không phải kiềm hãm sự khoái cảm của bạn mà là can thiệp vào quá trình kích thích tạo khoái cảm của bạn. Bạn sẽ thấy rằng bạn có thể kiểm soát được mức độ hưng phấn của mình chỉ bằng cách thay đổi tốc độ kích thích ở dương vật.
Sau khi bạn duy trì được khoái cảm trong hai phút, hãy tăng nhanh tốc độ và thưởng thức độ cực khoái của mình. Thực hành lại bài tập này, cho đến khi bạn có thể giữ khoái cảm ở mức độ cao trong khoảng 5 phút.
Chữa xuất tinh sớm bằng phương pháp đơn giản - 2
Nên luyện tập để mang lại cảm giác vui cho người bạn đời (Ảnh minh họa)
Lưu  ý
Giảm lo lắng và căng thẳng
Cố gắng tập trung và tránh mọi căng thẳng, lo lắng. Nếu không, bạn không nên tiến hành phương pháp tập luyện này. Hãy thực hiện bài tập này vào lúc khác khi đã có quân bình về cảm xúc. Đây là nguyên tắc rất quan trọng mà bạn phải luôn luôn tuân theo.
Tránh mọi hoạt động tình dục trong khi bạn đang tập luyện, kể cả thủ dâm cho đến khi kiểm soát một cách thuần thục.
Thực hiện một cách khoa học, bài bản
Nếu bạn muốn điều trị tình trạng xuất tinh sớm của mình, bạn phải tự cam kết với chính mình rằng bạn thực hiện chương trình một cách hệ thống và kỷ luật. Ngoài ra, bạn có thể đến các chuyên gia tình dục học tư vấn thêm (trung bình một tuần một lần).
Không thất vọng, nản chí
Nếu bạn thực hiện đúng bài tập một cách nghiêm túc nhưng không cải thiện quá trình kiểm soát xuất tinh, đừng thất vọng. Điều này không có nghĩa là không điều trị được mà có nghĩa rằng bạn cần sự giúp đỡ và tư vấn của thầy thuốc để sửa chữa những sai lầm, hoặc chia sẻ những cảm xúc thầm kín, những rắc rối của bạn.
Tạo không khí thoải mái, tự nhiên
Tùy thuộc vào tuổi và sức bền của bạn mà có thể tập luyện một hoặc ba lần tuần. Đừng thực hiện hơn, biến nó thành hoạt động phản tác dụng. Quan điểm điều trị ở đây là tập trung vào cảm xúc làm cho bạn được thoải mái, không phải để đánh giá thành tích của bạn.
Có đến 30-40% các quý ông bị mắc chứng bệnh phiền toái này. Nhưng nhà liệu pháp tâm lý tình dục học Paula Hall tuyên bố nó hoàn toàn có thể điều trị dễ dàng và thành công, với sự trợ giúp của bạn đời.

Saturday, November 30, 2013

Các nhà tâm lý học đã xác định được phương pháp học tập tốt nhất – Scientific American, An Khương dịch

Các nhà tâm lý học đã xác định được phương pháp học tập tốt nhất – Scientific American, An Khương dịch

Bài viết này (Psychologists Identify the Best Ways to Study) là bản do các tác giả tóm tắt công trình của mình (Improving Students’ Learning With Effective Learning Techniques Promising Directions From Cognitive and Educational Psychology) và đăng trên Scientific American số 29tháng 8, 2013
Tác giả: John Dunlosky , Katherine A. Rawson , Elizabeth J. Marsh , Mitchell J. Nathan và Daniel T. Willingham.
 An Khương chọn dịch.
***
Làm thế nào để phân biệt được phương pháp học tập nào thật sự hữu ích hay chỉ tổ làm bạn lãng phí thời gian? Một nghiên cứu mới đây lần đầu tiên chỉ ra phương cách tốt nhất để thu nạp kiến thức.
Giáo dục thường tập trung vào nội dung bạn cần học, chẳng hạn như môn đại số, hay các nguyên tố trong bảng tuần hoàn hóa học, hoặc làm thế nào để chia động từ. Tuy nhiên nếu học được cách học hiệu quả có thể cũng sẽ quan trọng không kém vì nó sẽ đem lại ích lợi cả đời cho người học. Học đúng phương pháp có thể  giúp bạn tiếp thu kiến thức nhanh hơn, hiệu quả hơn, khiến bạn có thể ghi nhớ thông tin trong nhiều năm thay vì chỉ nhiều ngày.

Trong hơn 100 năm qua, các nhà tâm lý học giáo dục và tâm lý học nhận thức đã nghiên cứu và đánh giá rất nhiều phương pháp học tập khác nhau, từ cách đọc đi đọc lại đến cách tóm tắt kiến thức cho đến phương pháp tự kiểm tra. Một số chiến lược học tập phổ biến đã giúp cải thiện rõ rệt thành tích của người học, trong khi những chiến lược khác chỉ làm tốn thời gian và không hiệu quả. Tuy nhiên, thông tin này chưa được phổ biến đến người học và người dạy. Ngày nay, giáo viên không được nói cho biết các phương pháp học tập nào là hiệu quả dựa trên chứng cứ thực nghiệm, và học sinh cũng không được dạy cho cách sử dụng những phương pháp học tập tốt. Trong thực tế, hai phương pháp hỗ trợ học tập mà người học sử dụng nhiều nhất hóa ra lại không hiệu quả. Một trong số chúng thậm chí có thể làm giảm đi kết quả học tập.
Một lý do chủ yếu cho hiện tượng nói trên là có một lượng rất lớn các nghiên cứu về vấn đề này, đến nỗi gây khó khăn cho các nhà giáo dục và cho người học trong việc xác định được phương cách học tập thiết thực và thuận lợi nhất. Để vượt qua thách thức này, chúng tôi đã xem xét hơn 700 bài báo khoa học về 10 phương pháp học tập phổ biến. Chúng tôi tập trung vào các chiến lược học tập dường như dễ sử dụng và có hiệu quả rộng rãi. Trong đó, chúng tôi xem xét kỹ hơn đến một vài phương pháp rất phổ biến với người học.
Chúng tôi chỉ khuyến nghị các phương pháp sao cho chúng phải có ích trong nhiều điều kiện học tập khác nhau, chẳng hạn như khi sinh viên làm việc một mình hoặc trong một nhóm. Ngoài ra, chúng phải hỗ trợ được cho học viên ở nhiều độ tuổi, khả năng và trình độ khác nhau. Và nhất là chúng phải được kiểm nghiệm thực tế. Học viên có thể sử dụng những phương pháp này để làm chủ kiến thức trong nhiều môn học, và thành tích học tập của họ sẽ được cải thiện theo mọi tiêu chuẩn đánh giá. Các phương pháp học tập tốt nhất cũng sẽ có tác dụng lâu dài trong việc nâng cao kiến thức và hiểu biết cho người học.
Sử dụng các tiêu chí này, chúng tôi xác định hai phương pháp có hiệu quả nổi trội. Chúng có hiệu quả ổn định và lâu dài cho nhiều điều kiện học tập khác nhau. Hơn ba phương pháp khác cũng được khuyến nghị trong một số điều kiện học tập nhất định, và năm phương pháp khác – bao gồm hai phương pháp học tập phổ biến – là không được khuyến nghị sử dụng. Hoặc là bởi vì chúng chỉ có ích trong một số trường hợp rất hạn chế, hoặc là vì chúng tôi không đủ chứng cứ để đánh giá chúng cao hơn. Chúng tôi cũng khuyến khích các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu một số phương pháp khác chưa được chúng tôi kiểm tra, nhưng học viên và giáo viên nên thận trọng khi áp dụng chúng.
Hai phương pháp vàng
1. Phương pháp tự kiểm tra (Self-Testing): Tự kiểm tra đem lại điểm cao.
Mô tả phương pháp: Không giống như một bài kiểm tra chính thức để đánh giá kiến thức, tự kiểm tra là việc người học tự thực hành để kiểm tra chính mình, ở bên ngoài lớp học. Phương pháp này có thể bao gồm việc sử dụng các tấm bìa (bằng giấy hoặc điện tử) để kiểm tra việc nhớ lại hoặc trả lời các bài tập ở cuối một chương sách. Mặc dù hầu hết học sinh đều muốn làm kiểm tra ít chừng nào tốt chừng ấy, hàng trăm thí nghiệm cho thấy rằng tự kiểm tra giúp cải thiện việc học và giúp ghi nhớ được lâu.
Trong một nghiên cứu, các sinh viên đại học được yêu cầu ghi nhớ các cặp từ, một nửa trong số đó sau đó được tham gia một bài kiểm tra khả năng nhớ lại. Một tuần sau, các sinh viên này nhớ được 35% các cặp từ trong bài kiểm tra, so với chỉ có 4% đối với những sinh viên không tham gia kiểm tra. Trong một thí nghiệm khác, các sinh viên đại học được tiếp xúc với một bản dịch từ tiếng Swahili sang tiếng Anh. Tiếp theo, họ dùng phương pháp tự kiểm tra để học một phần văn bản, phần văn bản còn lại chỉ được họ đọc lại. Sinh viên nhớ lại được 80% trong phần mà họ đã học bằng cách tự kiểm tra nhiều lần, so với chỉ có 36% cho phần mà họ chỉ đọc lại. Giả thuyết của chúng tôi là việc tự kiểm tra thực hành sẽ giúp tạo nên quá trình tìm kiếm trong não bộ liên quan đến khả năng ghi nhớ dài hạn để kích hoạt các thông tin liên quan, qua đó hình thành nhiều lối mòn ghi nhớ, giúp truy cập thông tin dễ dàng hơn.
Lứa tuổi nào có thể sử dụng phương pháp này? Bất cứ ai từ trẻ mẫu giáo đến sinh viên y khoa năm thứ tư cho đến người có tuổi trung niên đều được lợi khi sử dụng phương pháp tự kiểm tra này. Nó có thể áp dụng được cho tất cả các loại thông tin không trừu tượng, bao gồm việc học ngữ vựng, lập danh sách chính tả, và ghi nhớ các bộ phận của hoa. Thậm chí nó còn cải thiện được khả năng nhớ lâu cho những người bị bệnh Alzheimer. Tóm lại, phương pháp tự kiểm tra một cách thường xuyên có hiệu quả nhất trong việc học, đặc biệt là khi người học nhận được thông tin phản hồi cho các câu trả lời đúng của họ.
Phương pháp tự kiểm tra cũng hoạt động tốt ngay cả khi thể thức của các bài kiểm tra khi thực hành khác với các bài kiểm tra chính thức. Tác dụng có lợi của phương pháp này có thể kéo dài từ nhiều tháng cho đến nhiều năm.
Phương pháp này có dễ thực hiện không? Câu trả lời là “Có”. Nó chỉ cần một lượng thời gian khiêm tốn và người học cần được huấn luyện một ít hoặc thậm chí không không cần.
Sử dụng phương pháp này như thế nào? Người học có thể dùng các tấm bìa để tự kiểm tra hoặc sử dụng hệ thống Cornell như sau: Trong quá trình ghi bài trên lớp, hãy tạo ra một cột bên một lề của trang để ghi ra các từ khóa hoặc câu hỏi. Sau đó bạn có thể tự kiểm tra bằng cách duyệt lại các ghi chép này và trả lời các câu hỏi (hoặc giải thích các từ khóa) được ghi bên lề.
Đánh giá: Phương pháp này có hiệu quả cao. Việc tự kiểm tra có thể thực hiện được một cách rộng rãi trên nhiều thể thức, nội dung, lứa tuổi, và khoảng thời gian cần ghi nhớ.
2 . Phương pháp phân bổ thời gian ôn tập (Distributed Practice): Để đạt kết quả tốt nhất, hãy giãn rộng thời gian học của bạn ra.
Mô tả phương pháp: Học sinh thường tập trung học nhồi ngay trước khi có bài thi hoặc kiểm tra. Tuy nhiên nghiên cứu cho thấy việc phân phối thời gian học tập hợp lý sẽ hiệu quả hơn nhiều. Trong một thí nghiệm kinh điển, học sinh được học các từ tiếng Anh được dịch ra từ các từ trong tiếng Tây Ban Nha, sau đó ôn lại trong sáu phiên. Một nhóm đã ôn trong các phiên liên tiếp nhau, một nhóm ôn các phiên cách ngày và một phần ba số học sinh còn lại đã ôn các phiên cách nhau 30 ngày. Các học sinh trong nhóm cuối nhớ bản dịch tốt nhất. Trong một phân tích 254 nghiên cứu được thực hiện liên quan đến hơn 14.000 người tham gia, sinh viên nhớ lại được nhiều hơn khi phân bổ thời gian học cách quãng (nhớ được 47% của toàn bộ) so với việc học dồn (nhớ được 37%).
Lứa tuổi nào có thể thực hiện được phương pháp này? Phương pháp này giúp ích được cho cả trẻ ba tuổi, lẫn sinh viên đại học và cả người lớn tuổi hơn. Việc phân phối thời gian học hợp lý có hiệu quả cao cho việc học ngữ vựng, học định nghĩa của từ, và thậm chí cả việc học các kỹ năng như toán học, âm nhạc và phẫu thuật.
Phương pháp này có dễ thực hiện không? Câu trả lời là “Có.” Mặc dù sách giáo khoa thường gộp các bài tập lại với nhau theo chủ đề, bạn có thể ngắt chúng ra theo cách của mình. Bạn sẽ phải lên kế hoạch trước, và phải vượt qua được trở ngại chung của người học là xu hướng hay trì hoãn việc ôn bài.
Sử dụng phương pháp như thế nào? Khoảng cách lâu hơn giữa các lần ôn bài thường có hiệu quả cao hơn. Trong một nghiên cứu, khoảng cách 30 ngày cải thiện kết quả nhiều hơn so với việc ôn bài vất vả cách ngày. Trong một nghiên cứu dựa trên Internet về việc học ngữ pháp, tu từ và logic, kết quả cao nhất đạt được khi các phiên ôn bài cách nhau khoảng từ 10 đến 20% của khoảng thời gian mà người học cần phải nhớ được kiến thức. Để nhớ một điều gì đó trong một tuần, các phiên học ôn nên cách nhau từ 12 đến 24 giờ đồng hồ. Để nhớ một điều gì đó trong năm năm, các phiên học nên cách nhau từ 6 đến 12 tháng. Mặc dù không có vẻ gì là như thế, nhưng thực sự là bạn có thể ghi nhớ được thông tin ngay cả trong những khoảng thời gian dài, và bạn có thể học lại một cách nhanh chóng những gì bạn đã quên. Khoảng cách dài giữa các lần ôn bài là lý tưởng để nhớ được các khái niệm cơ bản làm cơ sở cho kiến thức nâng cao.
Đánh giá: Phương pháp này có hiệu quả cao. Việc phân phối thời gian học ôn hợp lý sẽ có hiệu quả cho người học ở nhiều độ tuổi khác nhau trong việc học tập ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nó rất dễ thực hiện và đã được sử dụng thành công trong thực tiễn.

Các phương pháp hạng nhì
Không như những gì được nói, các phương pháp học tập sau đây có hiệu quả thấp, trong nhiều trường hợp bởi vì không đủ bằng chứng tích lũy hỗ trợ cho chúng. Một số phương pháp, chẳng hạn như phương pháp hỏi đáp chi tiết (elaborative interrogation), hay phương pháp tự giải thích (self-explanation), chưa được đánh giá trong các tình huống giáo dục thực tế. Một phương pháp khác đang nổi lên, được gọi là phương pháp thực hành xen kẽ (interleaved practice), chỉ vừa mới bắt đầu được nghiên cứu một cách có hệ thống. Tuy nhiên, những phương pháp này cho thấy chúng cũng có hiệu quả đủ tốt để chúng tôi khuyến khích sử dụng trong những tình huống được mô tả ngắn gọn ở đây.
3 . Phương pháp hỏi đáp chi tiết (elaborative interrogation): Khởi nguồn từ bản tính tò mò của trẻ 4-5 tuổi.
Mô tả phương pháp: Tò mò là bản năng tự nhiên của con người, chúng ta luôn tìm kiếm những kiến giải về thế giới xung quanh mình. Một số lượng lớn các bằng chứng cho rằng thấy rằng gợi ý người học trả lời các câu hỏi “Tại sao?” cũng làm cho việc học tập dễ dàng hơn.
Trong phương pháp này, thường được gọi là phương pháp “hỏi đáp chi tiết” (elaborative interrogation), người học đưa ra câu trả lời cho các sự kiện, chẳng hạn như “Tại sao điều này có nghĩa là …?” hoặc ” Tại sao điều này lại đúng?” Chẳng hạn, trong một thí nghiệm, học sinh đọc được câu “người đàn ông đói bụng đã ngồi vào xe.” Các thành viên của nhóm hỏi đáp chi tiết được yêu cầu giải thích lý do tại sao, trong khi nhóm khác đã được cung cấp sẵn một lời giải thích, chẳng hạn như “người đàn ông đói bụng đã lên xe để đi đến nhà hàng.” Nhóm thứ ba chỉ đơn giản là đọc từng câu trên. Khi được yêu cầu nhớ lại ai đã làm gì (“Ai đã lên xe?”), trong nhóm hỏi đáp chi tiết có khoảng 72% học sinh trả lời đúng so với khoảng 37% trong các nhóm khác.
Nên sử dụng khi nào? Khi mà bạn đang học về những thông tin không trừu tượng, đặc biệt là khi bạn đã có hiểu biết về chủ đề này. Sức mạnh của phương pháp này tăng lên cùng với lượng kiến thức mà bạn biết về chủ đề. Chẳng hạn, học sinh ở CHLB Đức sử dụng phương pháp này hiệu quả hơn khi học về các tiểu bang của Đức so với khi học về các tiểu bang của Canada. Có thể là vì kiến thức có trước về chủ đề cho phép người học đưa ra lời giải thích phù hợp hơn cho lý do tại sao một điều gì đó đã xảy ra.
Tác dụng của phương pháp này có vẻ ổn định theo tuổi tác, từ học sinh lớp bốn cho đến sinh viên đại học. Phương pháp hỏi đáp chi tiết cải thiện rõ ràng việc ghi nhớ các sự kiện, nhưng vẫn chưa chắc chắn rằng liệu nó có làm tăng mức độ hiểu sâu hay không, và không có thông tin kết luận về việc hiến thức được ghi nhớ kéo sẽ dài bao lâu.
Phương pháp này có dễ sử dụng không? Câu trả lời là “Có.” Nó chỉ cần việc huấn luyện ở mức tối thiểu và thời gian tiêu tốn là ở mức hợp lý. Trong một nghiên cứu, một nhóm hỏi đáp chi tiết cần 32 phút để làm một nhiệm vụ mà một nhóm chỉ đọc cần 28 phút.
Đánh giá: Phương pháp này có hiệu quả vừa phải. Nó áp dụng được cho khá nhiều chủ đề khác nhau, nhưng có thể không hữu ích lắm đối với các chủ đề trừu tượng. Đối với người học chưa có kiến thức trước về chủ đề đang học thì lợi ích của phương pháp có thể bị hạn chế. Nghiên cứu thêm về phương pháp này là cần thiết để xác định xem liệu nó có thể áp dụng rộng rãi hơn vào các tình huống khác nhau, và các loại thông tin khác nhau nữa hay không.
4 . Phương pháp Tự Giải thích (Self-Explanation): Làm sao tôi biết?
Mô tả phương pháp: Người học phải đưa ra lời giải thích cho những gì họ học, xem xét quá trình tư duy đối với những câu hỏi kiểu như “Câu văn này cung cấp thông tin mới gì cho bạn?” “Nó có liên quan như thế nào đến những gì bạn đã biết?” Tương tự như phương pháp nêu câu hỏi và trả lời, phương pháp tự giải thích có thể giúp tích hợp hiệu quả thông tin mới học được với kiến thức đã có sẵn.
Lứa tuổi nào sử dụng được? Phương pháp này mang lại lợi ích cho người học từ bậc mẫu giáo cho đến sinh viên đại học, và giúp ích cho việc giải toán cũng như giải các câu đố cần suy luận logic. Nó có thể được dùng để học các chuyện kể cũng như học để thông thạo các chiến lược tàn cục trong cờ vua. Ở trẻ em, phương pháp tự giải thích có thể giúp ích trong việc học những khái niệm căn bản như việc học các con số hoặc hình mẫu. Phương pháp này cũng giúp cải thiện trí nhớ, giúp hiểu sâu và giúp giải quyết vấn đề – tác dụng của nó rất đa dạng. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu chỉ đo các tác dụng chỉ trong vòng vài phút, và ta không biết liệu hiệu quả của nó có kéo dài được lâu hơn đối với những người kiến thức hơn cao hoặc thấp hơn hay không.
Phương pháp này có dễ sử dụng không? Câu trả lời là không rõ ràng. Một mặt, hầu hết người học chỉ cần được hướng dẫn ở mức tối thiểu và thực hành ít hoặc không cần. Một bài kiểm tra của học sinh lớp chín cho thấy rằng những học sinh không được huấn luyện có xu hướng chỉ diễn giải lại điều được học chứ không phải là đưa ra lời giải thích thật sự. Mặt khác, một vài nghiên cứu cho thấy rằng phương pháp này tiêu tốn nhiều thời gian, tăng nhu cầu thời gian từ 30 đến 100% so với các phương pháp khác.
Đánh giá: Phương pháp tự giải thích có lợi ích vừa phải. Nó áp dụng được cho các môn học khác nhau và cho nhiều độ tuổi khác nhau đáng kể. Các nghiên cứu tiếp theo phải xác định được xem liệu những tác dụng của phương pháp này có lâu bền, và thời gian tiêu tốn nhiều cho nó là có đáng giá hay không.
5 . Thực hành xen kẽ (Interleaved Practice): Trộn táo với cam
Mô tả phương pháp: Một cách trực quan, người học thướng có xu hướng chia việc học ra thành các khối kiến thức, hoàn thành xong việc học một chủ đề hoặc một dạng bài tập trước khi chuyển sang phần tiếp theo. Nhưng nghiên cứu gần đây đã chỉ ra lợi ích của phương pháp thực hành xen kẽ. Trong đó, học viên sẽ học luân phiên các chủ đề hay các dạng bài toán khác nhau. Chẳng hạn trong một nghiên cứu, các sinh viên đại học đã học cách tính thể tích của bốn dạng vật thể khác nhau. Đối với phương pháp chia việc học thành khối kiến thức, họ phải hoàn thành tất cả các bài tập đối với một dạng vật thể trước khi chuyển sang dạng vật thể tiếp theo. Trong phương pháp thực hành xen kẽ, các bài toán về 4 dạng đã được trộn xen kẽ với nhau. Trong bài kiểm tra thực hiện một tuần sau đó, nhóm sử dụng phương pháp thực hành xen kẽ làm chính xác hơn 43% so với nhóm học theo phương pháp chia khối kiến thức. Việc học xen kẽ các kiến thức giúp người học có được kĩ năng lựa chọn phương pháp phù hợp và khuyến khích họ so sánh các dạng bài tập khác nhau.
Khi nào nên sử dụng phương pháp này? Khi các dạng bài tập tương tự nhau, có lẽ là vì bằng cách để chúng ở gần nhau thì dễ thấy sự khác biệt giữa chúng hơn. Phương pháp thực hành theo khối kiến thức – làm việc trên tất cả các bài toán cùng vào một chủ đề – có thể hiệu quả hơn khi mà các bài toán có sự khác nhau nhiều, bởi vì khi đó nó làm nổi bật những điểm chung giữa chúng.
Phương pháp thực hành xen kẽ có thể chỉ mang lại lợi ích những người đã đạt đến một trình độ nhất định. Tác dụng của phương pháp này cũng lẫn lộn cho nhiều loại nội dung học tập khác nhau. Nó giúp cải thiện kết quả học tập đối với các bài toán đại số, và có hiệu quả đối với một nghiên cứu trong việc đào tạo sinh viên y khoa khả năng diễn giải kết quả chẩn đoán chứng rối loạn tim mạch. Có hai nghiên cứu về việc học ngữ vựng cho thấy phương pháp này không có hiệu lực mấy. Tuy nhiên, với những khó khăn mà nhiều học sinh gặp phải ở môn toán, phương pháp này vẫn có thể là một chiến lược học tập rất có giá trị cho riêng môn này.
Nó có dễ thực hiện không? Câu trả lời có vẻ là “Có.” Một sinh viên có động cơ học tập có thể dễ dàng sử dụng phương pháp thực hành xen kẽ mà không cần bất kỳ hướng dẫn nào. Giáo viên cũng có thể sử dụng phương pháp này trong lớp học: Sau khi đưa ra một dạng bài tập (hoặc chủ đề), bước thực hành đầu tiên của phương pháp tập trung vào dạng bài đó. Ngay khi đưa ra dạng tiếp theo, cần trộn lẫn bài tập dạng này với bài tập của dạng trước. Phương pháp này có thể tốn nhiều thời gian hơn một chút so với phương pháp chia khối kiến thức, nhưng như thế vẫn đáng giá, vì nó giúp nâng cao thành tích học tập.
Đánh giá: Phương pháp thực hành xen kẽ có tác dụng vừa phải. Nó giúp cải thiện việc học tập và ghi nhớ các kiến thức toán học, và tăng cường các kỹ năng nhận thức khác. Mặc dù lượng tài liệu về phương pháp này là ít, nhưng trong đó cũng đã có đủ kết quả tiêu cực để ta cần phải bận tâm khi sử dụng nó. Có thể là phương pháp này không hoàn toàn tốt, hoặc có lẽ không phải lúc nào nó cũng được sử dụng một cách thích hợp – đây là những đề tài cho nghiên cứu tiếp theo.
Bài học rút ra
Tại sao người học không sử dụng các phương pháp học tập hiệu quả hơn? Có vẻ như họ đã không được dạy những chiến lược tốt nhất, và cũng có lẽ vì bản thân người dạy cũng không được đào tạo về các phương pháp đó. Chúng tôi đã khảo sát sáu cuốn sách giáo khoa tâm lý giáo dục học, và thấy rằng chỉ có một phương pháp – “học thuộc các từ khóa” – được xét đến trong mỗi cuốn. Không ai được hướng dẫn nhiều về cách sử dụng, tính hiệu quả hoặc sự hạn chế của các phương pháp học tập khác nhau.
Vấn đề thứ hai có thể là vì hệ thống giáo dục nhấn mạnh vào việc dạy cho người học các kỹ năng tư duy phê phán, và nội dung kiến thức, dành ít thời gian cho việc dạy phương pháp học tập. Điều này dẫn đến kết quả có thể là những học sinh có thành tích tốt trong những năm đầu đời, khi việc học tập được giám sát chặt chẽ, có thể gặp khó khăn một khi họ sẽ phải tự quản lý việc học của mình ở trường trung học hoặc đại học.
Một số vấn đề, chẳng hạn như độ tuổi tốt nhất để học sinh bắt đầu sử dụng một phương pháp nào đó, và khoảng bao lâu họ sẽ cần phải được huấn luyện lại hoặc nhắc nhở về phương pháp, vẫn cần được nghiên cứu thêm. Nhưng ngay từ bây giờ, người dạy đã có thể tích hợp các phương pháp học tập thành công nhất vào trong giáo án để người học có thể theo đó mà sử dụng. Ví dụ, khi chuyển đến phần kiến thức mới, người dạy có thể bắt đầu bằng cách yêu cầu người học làm một bài kiểm tra thực hành bao gồm những điểm quan trọng ở phần trước và phản hồi bài kiểm tra của người học ngay. Người học có thể chèn thêm vào giũa những bài toán mới các bài toán có liên quan ở trong các phần trước đó. Người dạy có thể khai thác phương pháp phân phối thời gian ôn tập hợp lý (distributed practice) bằng cách đưa ra lại các khái niệm chính trong quá trình dạy. Họ có thể giúp người học sử dụng phương pháp đặt câu hỏi và trả lời (explanatory questioning) bằng cách gợi cho người học xem xét trả lời cho những câu hỏi “Tại sao?”
Những phương pháp học tập này không phải phương thuốc chữa bá bệnh. Chúng chỉ đem lại lợi ích cho những người học có mục tiêu, và có khả năng sử dụng chúng. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng người học sẽ thu được nhiều ích lợi trong hoạt động trên lớp, trong các bài kiểm tra, và trong suốt cuộc đời họ.